Chiến tranh Ukraine ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu trong tương lai như thế nào ?

Ngày tạo 06/07/2022

 -  528 Lượt xem

Việc Nga xâm lược và đồng thời áp dụng các lệnh trừng phạt lên Ukraine, cùng với việc Trung Quốc đóng cửa kinh tế ngoại thương do đại dịch Covid 19 là những biến cố tiêu biểu nhất ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng toàn cầu. Chiến tranh thương mại Trung Quốc - Hoa Kỳ cùng với các gián đoạn liên quan đến đại dịch khác, sự thay đổi khí hậu, chắc chắn thúc đẩy sự di chuyển của các công ty phương Tây nhằm giảm sự phụ thuộc của họ vào Trung Quốc đối với các linh kiện và hàng hóa thành phẩm, sự phụ thuộc vào Nga về vận chuyển và nguyên liệu, đồng thời dẫn đến các chiến lược tìm nguồn cung ứng nội địa hóa. Nếu Trung Quốc quyết định hỗ trợ Nga trong cuộc xung đột Ukraine, điều này sẽ càng trở nên rõ ràng.
 

 

Trong những năm 1990, các công ty theo đuổi các chiến lược như gia công phần mềm và chế tạo tinh gọn để cắt giảm chi phí, giữ vị trí trên thị trường hoặc đạt được lợi thế cạnh tranh. Trung Quốc nổi lên như một trung tâm sản xuất lớn để phục vụ thị trường toàn cầu, bao gồm nhiều nền kinh tế châu Á đang mở cửa.

Mọi thứ bắt đầu thay đổi sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Với sự gia tăng đáng kể của giá dầu trong năm 2008 và sự xảy ra của nhiều loại thảm hoạ thiên tai, từ đại dịch SARS năm 2003 đến trận động đất năm 2011 ở Nhật Bản, lũ lụt ở Thái Lan, các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp nhận ra rằng các chiến lược được áp dụng vào những năm 1990 có thể làm ảnh hưởng đến khả năng ứng phó hiệu quả với thiên tai. Điều này khiến nhiều công ty tăng cường sản xuất trong nước để giảm rủi ro toàn cầu và có thể đáp ứng nhanh hơn cho nhu cầu trong nước.

Tuy nhiên, do những lợi ích của việc dựa vào Trung Quốc và các nước châu Á khác để sản xuất và với thị trường châu Á ngày càng phát triển, sự thay đổi này không phải là triệt để. Thật vậy, từ năm 2014 đến 2018, sản lượng sản xuất của Trung Quốc đã tăng 21% trong khi của Hoa Kỳ tăng 13%.

Năm 2019, ngay trước đại dịch, Trung Quốc chiếm 28,7% sản lượng sản xuất toàn cầu trong khi Hoa Kỳ chiếm 16,8%.

Trong bốn năm qua, chiến tranh thương mại Trung Quốc - Hoa Kỳ và sự gián đoạn chuỗi cung ứng do đại dịch, cùng với các sự kiện liên quan đến khí hậu đã làm cho tốc độ nội địa hóa chuỗi cung ứng tăng lên đáng kể. Trên thực tế, một cuộc khảo sát vào tháng 1 năm 2020 với 3.000 công ty, được thúc đẩy bởi chiến tranh thương mại Trung Quốc-Hoa Kỳ, phát hiện ra rằng các công ty trong nhiều ngành - bao gồm chất bán dẫn, ô tô và thiết bị y tế - đã thay đổi hoặc có kế hoạch chuyển dịch, ít nhất là một phần khỏi chuỗi cung ứng của họ khỏi các địa điểm hiện tại.

Điều này đã xảy ra. Hãy xem xét quyết định gần đây của Schneider Electric về việc xây dựng ba cơ sở sản xuất vòng điện mới ở Bắc Mỹ, một trong số đó sẽ nằm ở El Paso, Texas và kế hoạch của các nhà sản xuất ô tô, thiết bị truyền động pin thành lập 13 nhà máy sản xuất pin xe điện mới ở Hoa Kỳ  trong vòng 5 năm tới. Các thông báo tương tự đã được đưa ra gần đây trong các ngành công nghiệp năng lượng mặt trời, chất bán dẫn và công nghệ sinh học.

Tất cả những biến động sẽ ảnh hưởng lớn tới nguồn năng lượng, nguyên liệu thô, các bộ phận công nghiệp và hàng hóa giữa phương Tây, Trung Quốc và Nga.

Với việc giá dầu và khí đốt tăng cao do chiến tranh, chi phí vận tải cũng sẽ tăng theo. Điều ít rõ ràng hơn nhưng không kém phần quan trọng là những hạn chế do chiến tranh gây ra đối với khả năng sử dụng cơ sở hạ tầng giao thông của Nga để hỗ trợ sản xuất ở châu Á. Thật vậy, nhiều công ty đã sản xuất linh kiện và thành phẩm ở Trung Quốc, sau đó sử dụng tuyến đường sắt của Nga để chuyển những mặt hàng này sang Đông và Tây Âu. Tất nhiên, có thể vận chuyển một số mặt hàng này bằng đường hàng không, nhưng điều đó sẽ đắt hơn đáng kể, đặc biệt là hiện nay các hãng hàng không cần phải đi qua Nga.

Quan trọng không kém, Ukraine cung cấp khoảng 50% lượng khí neon trên thế giới, được sử dụng để sản xuất chip bán dẫn. Các chính phủ và các tập đoàn lớn hiện đang tranh giành để có được nguồn cung cấp thay thế, nhưng nguồn cung đang bị thắt chặt và giá cả đã tăng đáng kể. Nga và Ukraine cũng là những nước xuất khẩu lớn các loại ngũ cốc như ngô, lúa mạch và lúa mì, phân bón. Trong khi tác động của chiến tranh đối với nguồn cung cấp lương thực toàn cầu vẫn chưa rõ ràng, giá cả đã tăng chóng mặt.

Những yếu tố này đang thúc đẩy sự quan tâm đến các chiến lược chuỗi cung ứng nội địa. Thỏa thuận gần đây của Electricite de France (EDF) để mua một phần hoạt động kinh doanh năng lượng hạt nhân của GE, mà GE đã mua lại từ Alstom trong năm 2015, minh chứng cho sự xoay chuyển từ toàn cầu hóa sang nội địa hóa. Pháp đang gia tăng sự phụ thuộc vào các nhà máy điện hạt nhân, vốn đã tạo ra 70% sản lượng điện của nước này. Để làm như vậy nó cần để kiểm soát tốt hơn toàn bộ chuỗi cung ứng cho các nhà máy. Một ví dụ khác là thiết bị vòng kim loại bán dẫn. Chính phủ Hoa Kỳ và Hà Lan đã cấm ASML, nhà sản xuất lớn nhất thế giới về thiết bị in thạch bản được sử dụng để sản xuất chip máy tính không được phép bán các máy móc tiên tiến nhất của mình cho Trung Quốc.

Cuối cùng, tác động đáng ngạc nhiên của cuộc chiến tranh Ukraine đối với ngành sản xuất ô tô của châu Âu đã làm nổi bật mối nguy liên quan đến chuỗi cung ứng toàn cầu hiện tại. Ví dụ, Voll swagen và BMW đã phải đóng cửa dây chuyền lắp ráp ở Đức do thiếu hệ thống dây điện được sản xuất tại Ukraine bởi công ty Leoni của Đức. Và nhà sản xuất lốp xe Michelin gần đây đã thông báo rằng họ có thể đóng cửa một số nhà máy ở châu Âu do vấn đề hậu cần gây ra bởi cuộc xâm lược Ukraine của Nga. Không còn nghi ngờ gì nữa, các công ty ô tô châu Âu sẽ chịu rủi ro liên quan đến các nhà cung cấp quốc tế và cân nhắc mua nhiều hơn trong nước, ngay cả khi điều này đòi hỏi phải tăng giá thêm. Điều này có thể tạo cơ hội cho Châu Âu củng cố lĩnh vực sản xuất nội bộ của mình.

Nhưng như chúng tôi quan sát, cách tiếp cận nội địa hóa không phải là thuốc chữa bách bệnh. Vì Trung Quốc hiện là quốc gia thống trị, nếu không muốn nói là duy nhất, là nguồn cung cấp hàng nghìn linh kiện, nên việc giảm bớt sự phụ thuộc vào nước này trong nhiều trường hợp sẽ tạo ra một khoản đầu tư và thời gian đáng kể. Một trường hợp điển hình là kế hoạch được công bố gần đây của Intel, chi 20 tỷ đô la để xây dựng hai nhà máy bán dẫn ở Ohio. Nhà máy đầu tiên sẽ không bắt đầu sản xuất cho đến năm 2025.

Hơn nữa, chỉ riêng ngành công nghiệp sẽ không thể giải quyết nhiều thách thức của chuỗi cung ứng ngày nay. Các chính phủ sẽ phải vào cuộc. Tại Hoa Kỳ, các chính phủ liên bang và tiểu bang đang tăng cường đầu tư tại các cảng, sân bay và các cơ sở hạ tầng khác. Đạo luật CHIPS của Hoa Kỳ. (Mà Quốc hội vẫn chưa tài trợ) và Đạo luật về chip Châu Âu là những ví dụ về những nỗ lực của chính phủ nhằm giảm sự phụ thuộc vào Đài Loan và Hàn Quốc đối với sản phẩm uctor bán nguyệt. Xung đột Ukraine cũng là động lực thúc đẩy Liên minh Pin Châu Âu, mà Liên minh Châu Âu thành lập vào năm 2017 nhằm đưa Châu Âu đi đầu trong ngành công nghiệp pin tiên tiến.

Cho đến khi tái đầu tư cơ sở hạ tầng vào các khu vực địa phương, các công ty nên nhấn mạnh kiểm tra chuỗi cung ứng của họ và theo đuổi chiến lược để khiến họ linh hoạt hơn trước những rủi ro trong tương lai.

Web Admin

 
 
Gọi (028) 3514 2046